Wednesday, January 27, 2010

Vụ chiếc UH-1 bị đánh cắp tại Ðà Lạt 1973


Hồ Duy Hùng là ai?


Thiên Ân.

Vụ chiếc trực thăng UH-1H mang số 60-139 của Phi đoàn 219 bị đánh cắp tại Ðà Lạt năm 1973, trong Không Quân hầu như mọi người đều biết và dân chúng Sàigòn cũng được đọc tin tức trên báo chí thời đó.


Kẻ đánh cắp chiếc trực thăng nói trên là Hồ Duy Hùng, cựu Thiếu Uý Không Quân VNCH, sau khi thụ huấn ở Hoa Kỳ trở về, bị An Ninh KQ khám phá có thân nhân đi theo địch nên tên Hùng đã bị sa thải khỏi Quân Ðội. Sau này, bộ máy tuyên truyền của Việt cộng nói rằng Hùng là người của chúng được gài vào Không Quân VNCH để làm nội tuyến. Tuy nhiên đã có nhiều yếu tố khách quan cho thấy thoạt tiên Hùng chỉ là một tay bất mãn, đánh cắp máy bay để trả thù việc mình bị sa thải khỏi Quân Ðội, để rồi mãi về sau này trở thành một người hùng bất đắc dĩ của "Cách mạng"!


Ðể chứng minh cho lập luận nói trên, thiết nghĩ chúng tôi chỉ cần nêu ra hai sự kiện:
*Sự tuyên dương muộn màng:
Khác với Nguyễn Thành Trung - kẻ đã lái F-5 dội bom xuống Dinh Ðộc Lập, cũng như rất nhiều tên nội tuyến, nằm vùng khác đã được tô son trét phấn để tuyên dương sau ngày "Cách mạng thành công", Hồ Duy Hùng cho mãi đến năm 2000 mới được báo chí "quốc doanh" ở Sàigòn đề cập tới: Bán Nguyệt San Thanh Niên với bài: "Người hùng lặng lẽ", tờ Phụ Nữ Chủ Nhật với bài: "Vụ đánh cắp chiếc trực thăng UH-1...", và bài "Từ vụ án chiếc trực thăng UH-1" kéo dài 12 ngày trên một tờ báo nọ.


Nếu không kể tới những chi tiết "chửi cha nhau" trong ba bài báo nói trên, thì độc giả được biết đại khái (theo lời kể của Ðại tá Quân báo VC Lê Nam Hà và được phóng viên "xào nấu" laị) thì Hồ Duy Hùng (bí danh là Chính), trước kia hoạt động trong phong trào sinh viên học sinh tại Quy Nhơn, sau Mậu Thân 1968 vào Sàigòn và được Việt cộng móc nối kết nạp vào "Quân báo đặc khu Sàigòn-Gia Ðịnh".


Sau khi đánh cắp chiếc trực thăng bay về "mật khu", Hùng và Nguyễn Tường Long, một cán bộ Không Quân VC được gửi tới để tháo gỡ chiếc trực thăng chuyển ra miền Bắc. Tại Sơn Tây hai người này ráp trở lại và bay thử thành công. Sau đó cả hai trở lại miền Nam hoạt động, còn chiếc trực thăng thì được xử dụng trong viện huấn luyện phi công Bắc Việt.
Nguyễn Tường Long, nguyên là một kỹ sư gốc Việt kiều (cha Việt, mẹ Pháp) ở Lyon - Pháp; sau tình nguyện về nước tham gia "Cách mạng". Ðiều đáng lưu ý là khi các báo nói trên đồng loạt khai thác vụ "đánh cắp trực thăng" này thì Nguyễn Tường Long đã chết. Từ đó đưa câu hỏi: phải chăng vì "chiến sĩ quân báo Hồ Duy Hùng" chỉ là câu chuyện bịa đặt cho nên phải đợi tới lúc một trong hai vai chính về chầu "bác" thì mới dám "phịa"?


Hỏi tức là trả lời. Và chỉ có câu trả lời đó mới có thể giải thích tại sao sau ngày 30/4/1975, CSVN không rầm rộ tuyên dương "người hùng" Hồ Duy Hùng mà phải đợi đến 15 năm sau? Xét về công trạng, việc "đánh cắp một chiếc trực thăng ngay trước mũi địch rồi chuyển ra miền Bắc" (nguyên văn trên báo VC) của Hồ Duy Hùng nếu không hơn thì cũng phải bằng vụ dội bom Dinh Ðộc Lập của Nguyễn Thành Trung!


Hiện nay "đồng chí" Hồ Duy Hùng đang giữ một chức vụ khiêm nhượng: Giám Ðốc Công Ty Du Lịch Phú Thọ!

*Bị phòng không Việt Cộng bắn:
Theo lời kể của Ðại tá Quân báo VC Lê Nam Hà thì việc Hồ Duy Hùng đánh cắp trực thăng bay về đáp ở đồn điền cao su Dầu Tiếng, thuộc mật khu Lộc Ninh là "nằm trong kế hoạch", và các đơn vị địa phương đã được Bộ chỉ huy Miền thông báo trước để chuẩn bị đón "người chiến sĩ phi công anh hùng". Thế nhưng trên thực tế thì...


"Thấy máy bay địch bay về căn cứ của ta, các chiến sĩ giải phóng bắn lên. Máy bay bị trúng nhiều vết đạn nhưng ghế ngồi của phi công có tấm chắn phòng đạn nên ông Hồ Duy Hùng không bị thương. Ông hạ thấp độ bay phòng đạn và đã đáp xuống rất chính xác trong một bãi không rộng lắm dưới rừng cao su." (Nguyên văn trên báo Thanh Niên).
Theo báo Phụ Nữ Chủ Nhật thì lúc đó Hùng liên lạc với điện đài đơn vị (của VC) không được là vì "đồng chí trực điện đài đột ngột bỏ đi uống nước"!!!


Tác giả hai bài báo nói trên - Mạc Ðại và Nguyễn Phương Thảo - cho biết họ viết " theo lời kể của Ðại tá Nguyễn Nam Hà - nguyên phó giám đốc Quân báo Sàigòn & Gia Ðịnh và đồng chí Hồ Duy Hùng tức Chính", nhưng giữa hai bài báo đã có nhiều chi tiết mâu thuẫn tới mức không thể chấp nhận. Chẳng hạn, trong khi Mạc Ðại của báo Thanh Niên viết rằng chiếc UH-1 nói bị trúng đạn, sau khi được tháo gỡ, vận chuyển ra phi trường Hòa Lạc ở Sơn Tây (miền Bắc) thì "Từ Hà Nội, Trung đoàn Không Quân Vận Tải đã phải điều tới một xe công trình có đủ phương tiện sửa chữa và một toán cơ khí...", thì Nguyễn Phương Thảo của báo Phụ Nữ lại viết "... Sau khi kiểm tra chiếc máy bay, Ban Quân Báo tiếp tục phân công Chính (H.D.Hùng) nhiệm vụ mới là dùng máy bay mang bom thả vào Dinh Ðộc Lập đúng vào 9 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1974 là ngày mà Thiệu và nội các tụ tập đón mừng năm mới. Bom đã được đặt làm, Chính cũng đã chuẩn bị các phương tiện kỹ thuật để thực hiện nhiệm vụ. Nhưng đến giờ phút chót, cấp trên đề nghị hủy bỏ kế hoạch này và thay vào đó là một nhiệm vụ khác" (tháo gỡ để mang về Bắc).


Việc để "mất cắp" một chiếc phi cơ để cuối cùng lọt vào tay địch là một việc đáng trách - và rất đáng buồn khi người chịu trách nhiệm lại là một trong những cấp chỉ huy đáng kính phục nhất là trong ngành trực thăng - Cố Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa. Tuy nhiên Lý Tưởng Úc Châu nhắc lại chuyện cũ không với mục đích chê trách người đã khuất mà chỉ để mọi người được biết rõ về một biến cố trong quân chủng (cũng như số phận của chiếc trực thăng mang số đuôi 60-139) - hiện đang được các nhà báo của chế độ CSVN thêu dệt và khai thác - một cách trâng tráo và rẻ tiền.
Tiếp theo chúng tôi xin giới thiệu tới chiến hữu KQ và độc giả bài tường thuật của một người trong cuộc, đó là anh cơ phi (cơ khí phi hành) của chiếc trực thăng ttrong phi vụ nói trên.

* * *

Vụ mất máy bay trực thăng UH-1 số 60139 - Ngày 7 tháng 11 năm 1973

Sáng sớm ngày 6 tháng 11 năm 1973, Thiếu Tá Huỳnh Xuân Thu gặp tôi và nói "Chú về sửa soạn đi bay Quảng Ðức ngay, nhớ mang theo đồ ngủ đêm". Tôi chộp vội bộ đồ nhái, cái mền dù và trang bị vệ sinh cá nhân cùng một bộ Domino, sau đó tôi theo Anh Thu và Trung Tá Nguyễn Văn Nghiã (Phi đoàn trưởng) ra kiểm tàu số đuôi139 để bay đi Quảng Ðức thăm biệt đội đang biệt phái tại đây.


Khi đến nơi, Chi khu trưởng thuộc tiểu Khu Phú Bổn tiếp đón rất niềm nở, phòng nghỉ của biệt đội và chi khu gần nhau nhưng lại xa sân bay: từ sân bay qua một con phố, xuống dốc rồi lại vòng lên nơi nghỉ ngơi của Biệt Ðội 219. Khí hậu ở đây ban ngày thì rất nóng nực nhưng ban đêm lại lạnh vô cùng vì chung quanh toàn là núi đá.
Anh Nghiã và Anh Thu đi thăm từng nơi ở và làm việc của Biệt Ðội, hỏi thăm tình hình cuộc sống ăn ở của anh em, sau đó anh muốn ở lại đêm để khích lệ tinh thần anh em. Chiều xuống, cái giá lạnh bắt đầu và rất buồn tẻ. Phố xá không có sự nhộn nhịp, người ta tụ tập ở nhà không muốn ra ngoài đường và trời càng lúc càng tối chỉ leo lét những bóng đèn vàng ố không đủ thắp sáng một căn phòng, vì vậy anh em biệt đội chỉ ngồi bù khú trong giây lát rồi tất cả đi ngủ. Nơi đây không có gường, chỉ có ghế bố xếp nhà binh và có đôi khi anh em phải ngủ chung một ghế bố vì không có đủ; cũng may vì trời lạnh nên ngủ chung cũng không đến nỗi khó chịu.


Khoảng 10 giờ đêm, khi mọi người đã ngủ thì Chi Khu xuống báo địch quân hăm đánh vào chi khu và sân bay. Thế là toàn bộ anh em ra ứng chiến tại sân bay. Tất cả mở máy kiểm tra tình trạng phi cơ rồi tắt máy nghe Trung Tá Nghiã hướng dẫn bản đồ và phương hướng bay trong trường hợp chi khu bị overrun, sau đó ai nấy về tàu. Còn lại ba thầy trò chúng tôi trong tàu và một phi công nữa tôi quên tên ngồi chơi Domino, cứ chơi như vậy cho đến sáng. Ban đầu thì tôi thắng nhưng đến gần sáng thì Anh Nghiã gom sạch.


Sáng sớm hôm sau chúng tôi bay trở về Nha Trang, bay một đoạn Anh Nghiã nói " Thu, chú bay thử vào đám mây kia xem". Anh Thu bay vào khoảng 5 phút, Anh Nghiã bay ra lại và nói "Chú không chịu khó bay instrument, bay gì mà kỳ dzậy?". Rồi Anh Nghiã lại nói Anh Thu bay vào trong mây, rồi Anh Nghiã lại bay ra, mây mỏng cứ lấp phất lướt qua phi cơ. Sau đó Anh Nghiã lại nói Anh Thu bay vào cụm mây dầy kia thử xem, rồi càng lúc máy bay càng vào sâu trong mây, mây mỗi lúc một sậm lại, lúc này Anh Nghiã cầm control và anh nói huyên thuyên đủ thứ chuyện trên đời. Anh hỏi tôi:"Mẫn, chú thấy mây thế nào, mây màu gì kia?". Tôi lưỡng lự nhìn vào mây trước mặt và nói "Tôi thấy mây màu Hồng Trung Tá!". Anh Nghiã phá lên cười "Trời ơi! Thằng này Vertical quá rồi (ý nói Vertigo), cho chú cầm cần lái chắc chết hết anh em". Rồi anh quay sang Anh Thu cũng hỏi mây màu gì và anh cứ nói, chỉ dạy lung tung trong khi anh cứ tiếp tục bay trong mây, 15, 20, rồi 30 phút, anh vẫn bình tĩnh bay, phi cơ êm ru.


Gần một tiếng đồng hồ sau, Anh Nghiã thấy cây lờ mờ phía dưới, hỏi Anh Thu "Chú biết mình bay tới đâu rồi không?", Anh Thu chưa kịp đáp thì Anh Nghiã đã chỉ con đường ở phiá dưới nói là Ðơn Dương. Anh theo con đường đó bay đến Ðà Lạt với ý định thăm một nhân viên phi hành của 219 đang nghỉ dưỡng thương tại đây. Lúc 9 giờ sáng, phi cơ đáp xuống bờ hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng Thủy Tạ, tôi cất hành trang của tôi vào sau tail cone, ngay chỗ oil cooler fan. Sau đó ba thầy trò đi vào tiểu khu Tuyên Ðức nhờ gởi phi cơ nhưng không gặp ALO, đại diện không quân ở đó, định bay vào sân bay Cam Ly nhưng từ đó lại không có phương tiện ra thành phố, hơn nữa lúc đó thời tiết quá xấu, bay vào đáp ở trung tâm Ðà Lạt là đã giỏi lắm rồi. Chúng tôi trở lại máy bay, ssau đó Anh Nghiã rủ lên nhà hàng Mekong uống cà phê và ăn sáng. Tôi xin Anh Nghiã cho về nhà vì nhà Bác tôi ở đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mékong, thấy ngay sát bên, Anh Nghiã đồng ý cho tôi về nhà, hẹn khi nào về thì hai anh sẽ đến gọi.


Tôi ở nhà chơi và chờ các anh gọi bay về Nha Trang, nhưng mãi đến 1 giờ rưỡi trưa vẫn không thấy các anh đến gọi. Tôi chạy sang nhà hàng Mékong thì không thấy các anh đâu, Sau đó tôi nhờ Bác tôi chở ra nhà hàng Thủy Tạ chỗ đậu phi cơ, khi ra đến nơi thì không thấy phi cơ đâu cả, chạy qua sân vận động gần đó cũng không thấy. Tôi nghĩ chắc Anh Nghiã và Anh Thu đã bay về Nha Trang mà quên gọi tôi rồi, hay là không lẽ Trung Tá lại đến nhà Thượng Sĩ gọi đi bay?... Các câu hỏi chỉ quanh quẩn vào những điều vô lý đó, và tôi lại lo thêm nữa là khi Anh Nghiã và Anh Thu bay về thì đồ đạc của tôi dấu vào sau chỗ oil cooler fan lỡ cái mền dù hay bộ đồ nhái nó rơi ra và bị hút vào trong cánh quạt của oil cooler thì khổ! Rồi thắc mắc và lo âu cứ như thế dồn dập, rồi cái túi đựng helmet đã kép phẹc-mơ-tuya chưa?...Thật tình lúc đó tôi rất lo sợ, không sợ Anh Nghiã la rầy mà sợ lỡ phi cơ có bị gì thì sao? Hai anh có sao không?.


Tôi quay ngay ra bến xe đò mua vé trở về Nha Trang, dọc đường tôi rất lo lắng và mệt mỏi, rồi gục trên ghế trước ngủ thiếp đi, lát sau giật mình thấy có người nắm tay tôi, tỉnh lại thấy tay mình để trên đùi cô gái ngồi bên cạnh, cô cầm tay tôi để nhẹ qua đùi tôi. Tôi quê quá, vội vàng xin lỗi cô, cô nói thấy tôi có vẻ bồn chồn lo lắng. Cô gái cởi mở và thật có duyên với đôi răng khểnh dễ thương. Tôi quên hết mọ bồn chồn lo lắng, bắt đầu tấn công cô gái, suốt chặng đường chúng tôi đã quen nhau, khi về đến Nha Trang chúng tôi cùng đi ăn và Hường tên cô bé, đã cho tôi địa chỉ hẹn ngày hơm sau tôi sẽ đến tìm.


Khi về đến trại Hàm Tử khu gia binh của phi đoàn 219, lúc đó khoảng 7 giờ rưỡi tối, Hồng "già" chặn tôi lại hỏi: "Mày có biết gì không? Mày bay của mày bị mất cắp rồi", tôi chỉ cười vì cho đây là lời đùa, và như vậy là Anh Nghiã, Anh Thu đã về rồi, tôi thấy yên trí hơn. Sau đó tôi gặp Trần Mạnh Khiêm, nó nói: "Mày về phi đoàn đi, máy bay bị mất rồi, để tao chở mày vô!". Mọi người đều nói một cách nghiêm trang như vậy nghiã là có thật. Lúc này tôi không còn hoang mang nữa, chẳng hiểu vì sao, không thấy sợ, không thấy lo nghĩ, cứ dửng dưng như không có chuyện gì cả. Có lẽ vì mấy chữ "mất máy bay" hay "mấy cắp máy bay" nó không có trong tự điển lưu trữ trong đầu tôi, thành ra đầu tôi cứ trống rỗng. Cũng có thể chỉ số thông minh của tôi thấp, không biết suy nghĩ và không biết phản ứng như thế nào, hoặc vì tôi mệt lả cả người?...


Vừa về tới cửa phòng trong trại Bắc Bình Vương định lấy chìa khoá mở cửa phòng thì có hai Trung Sĩ Không Quân ngồi trên xe Ford Pick-up chờ sẵn ở đó, họ lại chào và hỏi tôi:"Xin lỗi có phải Thượng Sĩ Mẫn không ạ?". Tôi trả lời ngay: :"Vâng, tôi đây". Một trong hai người nói:"Chúng tôi mời Th/sĩ lên Phòng An Ninh có việc cần". Tôi trả lời:"Tôi vừa mới về, các anh có thể cho tôi tắm một cái rồi tôi lên ngay". Nhân viên an ninh trả lời:"Không có gì đâu, Th/Sĩ lên một chút xíu rồi về tắm cũng được mà". Mặc dù mệt mỏi tôi cũng phải lên Phòng An Ninh, việc đầu tiên là họ phủ đầu tôi trước, đưa tôi vào căn phòng 12 mét vuông, cửa sổ bị đóng bít lại bằng ván ép dằn từ phía bên ngoài, không có đèn điện.


Một lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và 4 cây đèn cầy của em bé đốt đèn Trung Thu, rồi khoảng 15 phút sau, họ đứng bên ngoài quăng vào cái bô nhôm, nghe một cái cảng, và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn bin vào xem tôi có tự tử hay không?. Khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau thì vị Ðại Úy An Ninh tôi quên mất tên, cho gọi tôi lên, lúc này khoảng 10 giờ đêm. Thấy điệu bộ của vị Ðại úy An Ninh, tôi hiểu ngay rằng nãy giờ họ làm như vậy là để hù họa tôi và cũng để câu giờ chờ sĩ quan đến thẩm vấn tôi.


Vị Ðại Úy nói:"Tôi biết Th/Sĩ chỉ là tép riu thôi, như vậy không có gì phải sợ, Th/Sĩ cứ trình bày mày bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Ðức làm gì, sau đó mấy giờ cất cánh và xuống Ðà Lạt lúc mấy giờ, và gặp ai, trông thấy ai, rồi đi về hướng nào, và cứ như thế cho đến khi Th/Sĩ khám phá ra mất máy bay". Rồi ông ta đưa cho tôi một xấp giấy bơ-luya và một cây bút bi, tôi cứ hí hoáy viết và kể lại toàn bộ những gì tôi biết được, theo dàn bài và cách thức sắp xếp của ông Ðại Úy đưa ra. Xong, vị Ðại Úy đọc lại rất cẩn thận, rồi đọc lại cho tôi nghe, sau đó nói là sai chưa đúng, bắt tôi khai lại và ông cất tờ kia đi. Cứ như thê nhiều lần... Cho đến 2, 3 giờ sáng, tay tôi cứng lại không còn viết được nữa, vị Ðại Úy mới cho tôi nghỉ và đưa về phòng giam.


Về phần Anh Nghiã và Anh Thu khi đến nhà Bác tôi gọi tôi đi về thì Bác tôi mới nói:"Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả, nó sợ các ông bỏ nó nên nó lên xe đò về Nha Trang rồi". Lúc đó hai anh mới hết hồn, nhờ Bác tôi lấy xe LaDaLat chở vô phi trường Cam Ly vẫn không thấy, sau Bác tôi đưa về Tiểu Khu Tuyên Ðức dò hỏi vẫn không ra, cuối cùng hai anh quyết định trình diện Tiểu Khu báo cáo sự việc và nơi đây Phòng An Ninh của Tiểu Khu đưa hai anh về Phòng An Ninh Không Quân Nha Trang ngày 8 tháng 11 năm 1973. Tại Nha Trang hai anh không bị giam giữ, hai anh ở nhà và nhân viên điều tra đến tận nhà làm việc.


Tôi bị giam như vậy lúc đầu tưởng về ngay nên tôi chỉ nhờ bạn đưa vào cái dù thả trái sáng để làm mùng, nhưng rồi vừa nóng vừa ngộp, tôi cứ lấy thuốc là châm thủng từ từ, lúc đầu lỗ nhỏ và ít, sau đó lỗ to và nhiều hơn, cuối cùng thì nó cũng như không vì chỗ nào cũng có muỗi. Còn ăn uống thì mỗi bữa nhờ nhân viên an ninh mua dùm ổ bánh mì và một bịch nước mía, còn bạn thì chẳng thấy ma nào dám bén mảng đến nữa, có lẽ họ sợ liên lụy chăng hay là Phòng An Ninh không cho thăm viếng?


Ăn bánh mì mãi không thể nuốt nổi, mà Phòng An Ninh không có quy chế ăn uống. Tôi phải tự túc mua ở ngoài, tưởng hết chịu nổi thì sau một tuần lễ, họ lại mời Thiếu Tá Thu vào ở chung với tôi, lúc đó họ mới cho khiêng hai cái gường sắt rồi đóng cửa lại. Lát sau, vị Ðại úy điều tra tôi vào xin lỗi:" Thiếu Tá thông cảm, tôi phải đóng cửa lại", Anh Thu tức giận:"Thiếu Tá cái gì, tao là thằng tù!", Ðại Úy An Ninh trả lời:"Lệnh trên chứ tôi đâu dám...", Anh Thu tức giận nhảy chồm tới:"Tao là thằng tù...", vị Ðại Úy nhảy vội ra ngoài và từ đó ngày đêm không đóng cửa nữa.


Rồi mỗi bữa Chị Thu mang vào hai phần cơm cho Anh Thu và cả cho tôi nữa, Chị còn làm một lon ghi-gô đậu phộng da cá cho Anh Thu nhưng anh không thích ăn nên giao cho tôi "xử lý" nó. Hai thầy trò được tự do đi lại, hay là ra ngoài sân hóng mát khi thoải mái.


Sau khi đối chiếu tất cả những lời khai của Anh Nghiã, Anh Thu và tôi, Phòng An Ninh Không Quân chuyển hồ sơ về Bộ Tư Lệnh Không Quân cho Trung Tướng Trần Văn Minh duyệt xét, sau đó chuyển lên cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, xem xong Tổng Thống bác lời khai của chúng tôi. Thế là thấy trò chúng tôi phải khai lại, và cứ như thế khai đi khai lại cho đến lần thứ ba, Trung Tướng Trần Văn Minh tuyên bố ông đã duyệt xét theo hệ thống quân giai, nếu Tổng Thống còn bác nữa tức là không tín nhiệm ông sẽ từ chức, đồng thời Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cũng can thiệp yêu cầu Tổng Thống xét lại, cho tới lúc đó ông Thiệu mới chịu duyệt.


Hết tuần lễ thứ hai, họ đưa Anh Nghiã lên Phòng An Ninh làm thủ tục, xong xuôi họ giải cả ba thầy trò chúng tôi ra Ðại Ðội 24 Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang.


Cơ sở của Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang là một dãy nhà cất theo kiểu dã chiến của Pháp, các phòng làm việc thì bừa bộn, thiếu tiện nghi, hồ sơ để lung tung, nhưng cách làm việc có vẻ chuyên môn hơn Phòng An Ninh KQ Nha Trang. Khi chúng tôi đến nơi, một vị Ðại Úy chấp pháp lấy cung chúng tôi từng người một, và không như trong An Ninh KQ, ở đây họ hỏi theo thứ tự lớp lang và họ ghi chép lấy chứ không để chúng tôi tự ghi chép.


Anh Nghiã vào làm việc trước, sau đó đến Anh Thuột dãy nhà cất theo kiểu dacu sơ Trang 24 Quân Cảnh Tư Pha. cuối cùng mới đến tôi. Sau khi Anh Nghiã ra, Anh Thu vào làm việc. Vị Ðại Úy chấp pháp lấy cung rất là lâu nên tôi có hơi bồn chồn, và có vẻ buồn buồn ưu tư. Anh Nghiã thấy vậy nói:"Này cái thằng chết nhát, có ai khai cho chú đâu mà cái vẻ mặt lo lắng, lo sợ vậy hả?... Xem anh đây này, sự nghiệp, địa vị, danh vọng, vợ con... mất hết mà anh có lo lắng điều gì đâu, sự việc đã xảy ra rồi thì điều gì đến nó sẽ đến, có lo lắng cách nào thì nó cũng phải đến vậy thôi..."


Rồi việc lấy cung của chúng tôi cũng kéo dài đến chiều, xong họ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng tôi. Vì ở đây chỉ có phòng tạm giam, mà phòng tạm giam thì toàn là lính "trời ơi" không thôi, nào là xì-ke, ăn cắp, hiếp dâm, đào ngũ, đánh lộn .v..v.., mà phòng thì chỉ là cái cũi làm bằng vỉ sắt phi trường, chung quanh trống trơn, mái cũng bằng vỉ sắt, nếu mưa thì chịu trận vậy thôi. Vì không có chỗ giam riêng chúng tôi nên buộc lòng họ phải nhường ba cái gường sắt của họ cho ba thầy trò chúng tôi nằm, còn họ nằm dưới đất. Sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ lý của chúng tôi, họ đưa Anh Nghiã vô Quân lao còn Anh Thu và tôi được cho về. Lúc này tôi mới nhớ tới cô bé tên Hường mà tôi mới chỉ nắm tay được trước đó 20 ngày. Tôi lục tìm địa chỉ mà em cho tôi, nó thất lạc mất rồi, tôi tiếc ngẩn người, đã hụt mất một nàng thật dễ mến và đáng yêu.


Vài ngày sau, tôi vào Quân Lao Nha Trang thăm Anh Nghiã. Trông thấy tôi, anh nói đùa:"Cái thằng chết nhát, mày vô đây làm gì, họ bắt nhốt mày bây giờ". Tư cách của anh thật ung dung. Tôi đưa cho anh quyển "Papillon" (Người tù khổ sai), anh phì cười khi thấy tựa cuốn truyện. Và anh kể cho tôi biết ngày anh vô đây, gặp một tên "Ðại bàng" trong tù, khi hắn ta biết anh là phi đoàn trưởng phi đoàn 219, hắn kính phục anh ngay, vì hắn cũng là một quân nhân, đã từng nghe những huyền thoại về 219. Ngoài đời hắn là một tay anh chị khét tiếng ở Nha Trang, và hắn đã có lần đụng độ với những tay lì lợm của 219 vào những năm 1968-69, khi phi đoàn chưa dời về Nha Trang (hình như hắn là kẻ đã chém lầm vào tay anh Châu Lương Cang tại Bar số 1). Gặp Anh Nghiã hắn nể phục ngay và ra lệnh cho đàn em phục vụ Anh Nghiã mọi nhu cầu. Hắn tuyên bố với các đàn em rằng Anh Nghiã là một "Ðại ca giang hồ trí thức" của hắn. Về phần Anh Nghiã, sau này cứ mỗi tháng hay vài tuần là Ðại Tá Lạc hay Chuẩn Tướng Lượng lại bảo lãnh cho về phép...


Ðến tháng 5 năm 1974,Anh Thu và tôi được Tòa Án Quân Sự Nha Trang mời ra làm việc và mọi sự lại khai lại như ban đầu. Sau đó, trong phiên tòa xử ngày 12 tháng 7, Anh Nghiã bị tuyên án "8 tháng tù ở, kể từ ngày bị bắt giam".


Phiên tòa kết thúc, mọi người chạy lại chúc mừng anh vì anh đã trong quân lao 9 tháng, quá thời gian tòa tuyên án. Từ đó anh về nhà luôn.


Trong năm 1974, không ai cắt tôi đi bay nữa, chỉ trực tại phi đoàn. Lúc này Anh Huỳnh Văn Phố lên làm quyền Phi Ðoàn Trưởng, sau hoán chuyển với phi đoàn trưởng 253 ngoài Ðà Nẵng là Thiếu Tá Phạm Ðăng Luân về làm Phi Ðoàn Trưởng 219, Anh Huỳnh Xuân Thu làm Phi Ðoàn Phó, Anh Trần Ngọc Thạnh làm Sĩ Quan Huấn Luyện, Anh Phạm Ngọc Sâm làm làm Trưởng Phòng Hành Quân. Buổi đầu, Anh Sâm cắt bay không để ý đến sự trùng hợp tên tuổi của nhân viên trong phi đoàn nên có vài việc buồn cười xảy ra như khi cắt một phi hành đoàn biệt phái đi Ban Mê Thuột, anh đã ghi trên bảng phi lệnh;"PHÐ: Bơ - Ðường - Xả -Cải" (Phan Công Bơ, Trưởng phi cơ - Lý Bổn Ðường, Hoa tiêu phó - Hồ Văn Xả, Mevo - Lê Văn Cải, Xạ thủ), thế là mọi người được một mẻ cười vì nguyên phi hành đoàn toàn đồ ăn, không sợ đói. Sau anh cắt một phi hành đoàn cũng bay đi Ban Mê Thuột, sáng ra các anh thấy tên của phi hành đoàn này thì đều rụng rời tay chân: "Kiệt - Lực - Quan - Tài" (Võ Tấn Kiệt, TPC - Nguyễn Hùng Lực, HTP - Nguyễn Văn Quan, Mevo - Nguyễn Văn Tài, Xạ thủ), không anh nào chịu bay cả. Anh Sân phải cắt bay lại với các tên khác các anh mới đi bay...


Minh Mẫn 219

VỤ ÁN MẤT MÁY BAY TRỰC THĂNG UH.1 H SỐ 60139


PHÐ : NGHĨA – THU – MẪN.
Sáng sớm ngày 06 tháng 11 năm 1973 Anh Thu gặp Mẫn nói “ Chú về sửa soạn đi bay Quảng Ðức ngay nhớ mang theo đồ ngủ đêm “ Tôi chộp vội bộ đồ nhái cái mền dù và trang bị vệ sinh cá nhân cùng một bộ Domino sau đó tôi theo Anh Thu và Anh Nghĩa ra kiểm tàu số 139 chúng tôi lên Quảng Ðức thăm biệt đội đang biệt phái nơi đây , Khi đến nơi Chi Khu trưởng thuộc Tiểu Khu Phú Bổn nơi đây tiếp đón niềm nở , phòng nghỉ biệt đội và chi khu gần nhau nhưng lại xa sân bay, từ sân bay qua một con phố xuống dốc rồi lại vòng lên đồi nơi nghỉ ngơi của Biệt Ðội 219 , khí hậu ở đây ban ngày thì rất nóng nực nhưng ban đêm thì lại lạnh vô cùng , vì chung quanh toàn là núi đá , Anh Nghĩa và Anh Thu đi thăm từng nơi ở và làm việc của Biệt Ðội hỏi thăm tình hình cuộc sống ăn ở của Anh Em , sau đó Anh muốn ở lại đêm để khích lệ Anh Em.

Chiều xuống cái lạnh gía bắt đầu , và rất buồn tẻ , Phố xá không có sự nhôn nhịp ø họ đều tụ tập tại nhà không muốn ra đường và trời càng lúc càng tối chỉ leo lét những bóng đèn tròn vàng ố không đủ thắp sáng một căn phòng , vì vậy Anh Em biệt đội chỉ ngồi bù khú trong giây lát rồi tất cả đi ngủ, nơi đây không có giường chì có ghế bố xếp nhà binh , và đôi khi một vài Anh Em phải ngủ chung một ghế bố vì không đủ giường bố , rất may vì trời lạnh nên ngủ chung cũng không đến nỗi khó chịu, khoảng 10 giờ đêm khi mọi người đã ngủ thì Chi Khu xuống báo Ðịch quân hăm đánh vào Chi Khu và sân bay, Thế là toàn bộ Anh Em biệt đội ra ứng chiến tại sân bay, Tất cả mở máy kiểm tra tình trạng PC và tắt máy nghe Tr/T Nghĩa hướng dẫn bản đồ và phương hướng bay khi gặp trường hợp oveun , sau đó ai về tàu nấy , Còn lại ba thầy trò chúng tôi trên tàu và một Pilot tôi quên tên ngồi chơi Domino , cứ chơi như vậy cho đến sáng , ban đầu thì tôi thắng nhưng khi đến gần sáng thì Anh Nghĩa gôm sạch.

Sáng sớm chúng Tôi bay trở về Nha Trang , bay một đoạn Anh Nghĩa nói “ Thu mày bay thử vào trong đám mây kia xem “ Anh Thu bay vào khoảng 5 phút , Anh Nghĩa bay ra lại và nói “ mày không chịu khó bay instrument sao mà bay kỳ dậy “ Rồi tiếp tục Anh Nghĩa lại nói Anh Thu bay vào trong mây, rồi Anh Nghĩa lại bay ra , mây mỏng cứ lất phất lướt qua PC , sau đó Anh Nghĩa lại nói Anh Thu bay vào cụm mây dầy kia thử xem, rồi càng lúc máy bay càng vào trong mây, mây mỗi lúc một sậm lại, lúc này Anh Nghĩa cầm control, và Anh nói luyên thuyên đủ thứ chuyện trên đời , Anh Nghĩa hỏi Tôi “ Mẩn mày thấy mây thế nào , mâuy màu gì kìa “ Tôi lưỡng lự nhìn vào mây trước mặt và nói “ Tôi thấy mây màu hồng Tr/Tá “ Anh Nghĩa phá lên cười và nói “ Trơi ơi thằng này Vertical ( ý nói Vertigo) quá rồi, cho mày cầm lái chắc là chết hết Anh Em “, rồi anh quay qua Anh Thu cũng hỏi mây màu gì , và Anh cứ nói và tìm cách la rầy rồi chỉ dạy lung tung , rồi Anh cứ ù bay , 15 phút , rồi 20 phút, rồi 30 và Anh cứ vững tâm mà bay , PC vẫn êm ru , Anh cứ nói chuyện dần lên dến gần tiến đồng hồ trong may , sau đó Anh hỏi Anh Thu thấy ở phía dưới lờ mờ cây “ mày biết mình bay tới đâu rồi không “ Anh Trông thấy có đường ở phí dưới và nói ngay “ Ở dưới là Ðơn Dương “ Anh Nghĩa theo con đường đó vào đến Ðà Lạt lúc 9 giờ sáng , khi đáp xuống bở Hồ Xuân Hương bên cạnh nhà hàng Thủy Tạ , Tôi cất các hành trang của tôi vào sau tail cone ngay chỗ oil cooler fan , sau đó Ba thầy trò đi vào Tiểu Khu Tuyên Ðức nhờ gởi PC nhưng không gặp Alo đai diện KQ ở đó định vào sân bay nhưng lại không có phương tiện ra …và thời tiết thì đang quá xấu vào đến trung tâm Thị Xã Ðà Lạt là giỏi lắm rồi.

Chúng Tôi trở ra lại máy bay, sau đó Anh Nghĩa rủ lên nhà hàng Mekong uống cafée và ăn sáng , Tôi xin Anh Nghĩa cho về nhà vì nhà Bác tôi đối diện với cửa sau bên hông nhà hàng Mekong , thấy ngay sát bên cạnh , Anh Nghĩa đồng ý cho tôi về nhà , hẹn khi nào về Anh Nghĩa và Anh Thu sẽ gọi , Tôi ở nhà chơi và chờ các Anh gọi về NhaTrang , nhưng mãi đến 13 giờ 30 không thấy các Anh gọi , tôi chạy qua bên nhà hàng Mekong thì không thấy các Anh đâu , Tôi sơ ý không lên trên lầu, sau đó tôi nhờ Bác tôi chở ra Nhà hàng Thủy Tạ chỗ đậu PC , khi ra đến nơi thì không thấy máy bay đâu cả, chạy qua chỗ sân vân động gần đó cũng không thấy , Tôi nghĩ chắc Anh Nghĩa và Anh Thu quên gọi tôi rồi , hay là không lẽ Trung Tá lại đến nhà thượng sĩ gọi đi bay, các câu hỏi chỉ quanh quẩn vào những điều vô lý đó , và tất cả những thắc mắc hay nghi vấn chỉ là nhưng điều vô lý mà thôi , và tôi lại lo thêm nữa là khi Anh Nghĩa và anh Thu bay về thì đồ đạc của Tôi dấu vào sau chỗ oil cooler Fan lỡ cái mền dù hay bộ đồ nhái nó rơi ra hút vào trong cánh quạt của oil cooler thì khổ , và thắc mắc lo âu cứ thế mà dồn dập , rồi cái túi halmet đã kéo phéc mơ tuya chưa , Thật tình lúc đó tôi rất lo sợ , không sợ Anh Nghĩa la rầy mà sợ lỡ PC có bị gì thì sao, hai Anh có sao không …

Tôi quay ngay ra bến xe đò mua vé trở về Nha Trang , trên dọc đường tôi rất là lo lắng và mệt mỏi , rồi gục trên ghế trước ngủ thiếp đi , lát sau giật mình thấy có người nắm tay tôi, tỉnh lại thấy tay mình để lên đùi một cô gái, cô cầm tay tôi nhẹ để qua đùi tôi , Tôi quê quá vội vàng xin lỗi , cô nói thấy tôi có vẻ bồn chồn lo lắng , cô gái û cởi mở và thật là có duyên với đôi răng khểnh dễ thương , Tôi quên hết mọi bồn chồn lo lắng , bắt đầu tấn công cô gái , xuốt chặng đường chúng tôi đã quen nhau, khi về đến Nha Trang chúng tôi cùng đi ăn và Nàng Hường tên cô bé đã cho tôi địa chỉ hẹn ngày hôm sau tôi sẽ đến tìm .

Khi về đến trại Hàm Tử khu gia Binh của Phi Ðoàn 219 lúc đó khoảng 19 giờ 30 tối Hồng già chặn tôi lại “ mày có biết gì không , máy bay của mày đã bị mất cắp rồi , “ Tôi chỉ cười cho đây là đùa và vậy là Anh Nghĩa về với Anh Thu rồi , Tôi thấy yên chí hơn , sau đó Tôi gặp Trần Mạnh Nghiêm , nó nói “mày về Phi Ðoàn ngay đi máy bay bị mất rồi , để tao chở mày vô “ Mọi người đều nói một cách nghiêm trang vậy là có thật . Lúc này tôi không còn hoang mang nữa , chẳng hiểu vì sao , không thấy sợ , không thấy lo nghĩ , cứ dửng dửng như không có chuyện gì cả , vì cái từ mất máy bay hay mất cắp máy bay nó không có trong Tự Ðiển của HÀN LÂM VIỆN lưu trữ trong đầu tôi , thành ra trong đầu tôi cứ trống rỗng như không có chuyện gì , Có lẽ chỉ số thông minh của Tôi thấp nên không có biết suy nghĩ và không biết phản ứng sử lý như thế nào , nhưng thật tình lúc đó tôi lại thấy mệt lả cả người , Vừa về tới trước cửa phòng trong trại Bắc Bình Vương định lấy chìa khóa mở cửa phòng thì có hai trung sĩ KQ nghồi trên chiếc xe Ford pickup chờ ở đó họ lại chào Tôi và hỏi “ xin lỗi có phải là Thượng Sĩ Mẫn không Ạ ? “ Tôi trả lời ngay “ Vâng Tôi đây “ Một trong hai người nói “ Chúng Tôi mời Th/S lên phòng An Ninh có việc cần “ Tôi vô tư trả lời “ Tôi mới vừa về các Anh có thể để cho Tôi tắm một cái rồi Tôi lên ngay "

Nhân viên An Ninh trả lời “ Không có gì đâu , Th/S lên một chút xíu rồi về tắm cũng được mà “ mặc dù mệt mỏi Tôi cũng phải lên xe về Phòng An Ninh. Khi lên đến phòng An Ninh , việc đầu tiên họ làm là phủ đầu tôi trước , đưa tôi vào một căn phòng 12 mét vuông , cửa sổ đóng lại và họ lấy ván ép đóng dằn lên phía ngoài , không có đèn điện , lát sau họ quăng vào một cái chiếu đơn và 4 cây đèn cầy của Em bé đốt đèn trung thu, rồi khoảng 15 phút sau họ đứng ngoài quăng vào tiếp một cái bô nhôm, nghe một cái cảng , và cứ 15 phút họ lại mở cửa rọi đèn pin vào xem tôi có tự tử hay không , và khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ sau thì viên Ðai Uùy sỉ quan An Ninh tôi quên mất tên, cho gọi tôi lên , lúc này khoảng 10 giờ đêm thấy điệu bộ của Ð/U Anh Ninh Tôi hiểu ngay là họ làm như vậy nãy giờ là để dọa tôi và cũng là để câu giờ chờ Sĩ Quan đến để thẩm vấn tôi .

Viên Ð/U nói “ Tôi biết Th/s chỉ là tép riu thôi như vậy không có gì phải sợ, Th/S cứ trình bày máy bay rời Nha Trang lúc mấy giờ và đến Quảng Ðức làm gì sau đó sáng mấy giờ cất cánh và đáp xuống Ðà Lạt lúc mấy giờ và gặp ai trông thấy ai , rồi đi về hướng nào ,và cứ thế cho đến lúc thượng sĩ phát hiện ra mất máy bay “ rồi ông ta đưa cho tôi một sấp giấy Bơ luya và một cây bút bi, Tôi cứ hí hoáy viết và kể toàn bộ những gì Tôi biết được , qua dàn bài và cách thức sắp xếp văn bản của viên Ð/U an ninh , Sau khi xong viên Sĩ quan điều tra đọc lại rất cẩn thận , rồi đọc lại cho tôi nghe sau đó nói là sai chưa đúng , bắt tôi khai lại và tờ kia ông cất đi , cứ như thế nhiều lần… Sau cùng Ðiều Tra viên nói “ Bây giờ Th/S suy nghĩ kỹ máy bay đáp tại Ðà lạt quay đầu về hướng nào và từ máy bay ra đường là bao xa , có nhìn vào nhà hàng thủy tạ không và nếu nhìn , thì thấy gì, sau đó Th/S bước ra đường nhìn thấy ai đi về hướng nào, và Họ mặc áo gì , Th/S có thấy người mặc áo Pardessus màu xám đầu đội nón nỉ đen không , và người này quen với Tr/T Nghĩa như thế nào. Bước chân Th/s dài bao nhiêu 9 tấc hay 1 thước , cho là 1 thước đi vậy từ đường cái Th/s đi dược 15 hay 20 bước có nghĩa la cứ ø đi được 20 thước th/s nhìn về đâu và đang suy nghĩ gì lúc đó mấy giờ thấy ai , cứ tuần tự như thế mà kể cho đến cầu ở đầu bờ hồ “
Và theo lời ông ta tôi lại viết, càng viết lại càng viết lại cứ như vậy cho đến ba giờ sáng , tay tôi không còn viết được nữa chữ CH thì viết chữ H chông lên chữ C . nó cứ cứng cái tay lại lúc đó Ð/U điều tra viên mới cho tôi nghỉ , và đưa về phòng giam, Trong lúc đó Anh Nghĩa và Anh Thu khi đến nhà bác Tôi gọi đi về thì Bác Tôi mới nói “ Nó ra chỗ đậu máy bay không thấy máy bay đâu cả , nó sợ các Oâng bỏ nó nên nó đi xe đò về Nha Trang rồi “ Lúc đó Hai Anh hết hồn và rất lo âu sau đó nhờ Bác Tôi chở vô Phi Trường Cam Ly bằng xe LaDalat vẫn không thấy sau bác Tôi đưa hai Anh về Tiểu Khu Tuyên Ðức Ðà Lạt hỏi thăm vẫn không ra và Hai Anh Quyết định Trình Diện Tiểu khu báo cáo sự việc và nơi đây Phòng An Ninh Tiểu Khu đưa Hai Anh về Phòng An Ninh Không Quân Nha Trang ngày 08 tháng 11 năm 1973 , Nơi đây không giam giữ hai Anh , và hai Anh Nghĩa & Thu ở nhà , nhân viên điều tra đến tại nhà làm việc .

Tôi bị giam như vậy lúc đâu tưởng về ngay nên tôi nhờ bạn đưa vào cái dù thả trái sáng để làm mùng , nhưng rồi vừa nóng lại vừa ngộp Tôi cứ lấy thuốc lá đục thủng từ từ , lúc đầu lỗ nhỏ và ít, sau lỗ lớn lại to , cuối cùng thì có nó cũng như không vì chỗ nào cũng có muỗi , còn ăn uống thì mỗi bữa nhờ nhân viên An ninh mua hộ một ổ bánh mì và một bịch nước mía , còn bạn thì chẳng thấy ma nào bén mảng đến nữa , họ sợ liên lụy chăng , hay là phòng An Ninh không cho vô thăm ,Aên bánh mì mãi cũng không thể nuốt nổi , mà Phòng An Ninh không có quy chế ăn uống, Tôi phải tự túc nhờ mua ở ngoài, tưởng hết chịu nổi thì sau một tuần lễ , Họ lại mời Thiếu Tá Thu vào ở chung với tôi , lúc đó họ mới cho hai cái giường sắt vào phòng , rôi họ đóng cửa lại , lát sau viên Ð/U diều tra bước vào nói Tôi vào xin lỗi “ Thiếu Tá thông cảm , tôi phải đóng cửa lại “ Anh Thu tức giận nói “ Thiếu tá cái gì, tao là thằng tù “ Ð/U An ninh trả lời “ Lệnh trên chứ tôi đâu dám “ Anh Thu nhẩy chồm tới “Tao là thằng Tù mày có ra ngoài không ? “

Thế là viên Ð/U nhẩy ra ngoài và từ hôm đó ngày đêm không đóng cửa, Rồi Chị Thu mỗi bữa mang vào hai phần cơm cho Anh Thu và cho cả Tôi nữa , Chị Thu còn làm một lon gigo đậu phộng da cá cho Anh Thu nhưng Anh Thu không thích ăn , nên giao cho tôi xử lý nó , hai thầy trò được đi lại hay ra ngoài sân hóng mát thoải mái. Tất cả những lời khai của Anh Nghĩa , Anh Thu và Tôi được đối chiếu xong xuôi Phòng An Ninh chuyển gấp hồ sơ của chúng tôi về Tư Lênh Không Quân Trung Tướng Trần Văn Minh xét duyệt sau đó chuyển lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu , khi xem xong Tổng Thống bác lời khai của chúng tôi , thế là thầy trò chúng tôi phải khai lại và cứ thế khai đi rồi khai lại đến lần thứ ba Tướng Tư Lệnh Không Quân Tuyên bố nói Oâng đã duyệt theo hệ thống Quân giai nếu Tổng Thông còn bác nữa là đã không tín nhiệm ông Thì Oâng sẽ từ chức , Ðồng thời lúc đó Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình can thiệp yêu cầu Tổng Thống xét lại cho ,
lúc đó Oâng Nguyễn Văn Thiệu mới chịu duyệt . Và đến hết tuần thứ hai họ lại đưa Anh Nghĩa lên phòng An Ninh làm thủ tục xong họ giải cả Ba thầy trò chúng Tôi ra Ðại Ðội 24 thuộc Quân cảnh Tư Pháp Nha Trang .
Quân cảnh Tư Pháp Nha Trang là một giẫy nhà kiến trúc theo kiểu Pháp cất dã chiến, những phòng làm việc thì bừa bộn , thiếu tiện nghi, hồ sơ để lung tung , nhưng cách làm việc có vẻ chuyên môn hơn trong phòng An ninh Không Quân Nha Trang , Khi chúng Tôi đến nơi Một Ðại Uùy Chấp Pháp lấy cung chúng Tôi từng người một , và không như trong A.N KQ họ hỏi theo thứ tự lớp lang và họ ghi chép chứ không để cho chúng Tôi tự ghi chép , và họ viết lại theo giọng điệu của chúng Tôi , Anh Nghỉa vô làm việc trước sau đến Anh Thu và cuối cùng mới đến Tôi , khi họ làm việc cùng Anh Nghĩa xong họ mời Tôi vô đối chứng câu nói của Anh Nghĩa , trước mặt Anh Nghĩa Oâng Ta hỏi Tôi “ Thượng Sĩ có thể cho chúng Tôi biết , Th/S Nghĩ như thế nào Khi Trung Tá Nghĩa nói với chúng Tôi là ( Tôi ra Lệnh cho thuộc cấp đi chơi ) “ Tôi im lặng một vài giây xong trả lời “ Ð/U cũng là một quân nhân , vậy chắc hẳn là Ð/U biết cấp trên ra lệnh thì thuộc cấp phải thi hành, Theo Tôi khi cấp trên đã ra lệnh đúng sai tôi vẩn phải thi hành , còn sau khi thi hành xong thì vấn đề sai mà hợp lý với Tôi thì chẳng bao giờ khiếu nại làm gì “, Chấp pháp viên có vẻ không hài Lòng vì câu nói của Tôi gắt lên “ Thượng sĩ ra ngoài đi “ sau đó mời Thiếu Tá Thu vào tiếp tục làm việc , Anh Ta lấy cung rất là lâu nên Tôi có hơi bồn chồn, và có vẻ buồn buồn ưu tư , Anh Nghĩa thấy vậy nói “ này cái thằng chết nhát ,có ai khai cho chú đâu mà vẻ mặt lo lắng và lo sợ vậy hả . xem Anh đây này , sự nghiệp , địa vị , danh vọng , vợ con … mất hết mà Anh có lo lắng điều gì đâu, mọi việc đã sảy ra rồi , thì việc gì đến cũng sẽ đến, có lo lắng cách nào thì nó cũng phải đến vậy thôi “, rồi việc lấy cung của tôi cũng kéo dài đến chiều , xong họ sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho chúng Tôi , vì ở nơi đây chỉ có phòng tạm giam , mà phòng tạm giam thì toàn là lính TRỜI ƠI không thôi , nào là sì ke , ăn cắp , hiếp dâm , đào ngũ , đánh lộn vân …vân… mà phòng tạm giam thì chỉ là cái cũi làm bằng vỉ sắt Phi trường chung quanh trống trơn mái cũng bằng vỉ sắt , nếu mưa thì cứ chịu trận vậy thôi .và vì không có chỗ giam chúng Tôi nên buộc lòng họ nhường ba giường sắt của họ cho ba thầy trò chúng tôi nằm , còn họ nằm dưới đất , sau năm ngày đúc kết hồ sơ thụ Lý của chúng Tôi , họ đưa Anh Nghĩa vô Quân Lao còn Anh Thu và Tôi được cho về , Lúc này mới nhớ ra cô Bé Hường mà Tôi mới chỉ nắm tay trước đó 20 ngày , Tôi lục tìm địa chỉ mà Em đã cho Tôi , Nó đã thất lạc mất rồi , Tôi tiếc ngẩn người , đã đánh mất một nàng thật dễ mến và đáng yêu .

Vài ngày sau Tôi vào Quân Lao Nha Trang thăm Anh Nghĩa , Anh trông thấy Tôi nói ngay “Thằng chết nhát … mày vô đây làm gì , họ bắt nhốt mày vô đây bây giờ “ , Anh tư thế thật ung dung tôi đưa cho Anh Quyển PAPILON ( Người Tù Khổ Sai ) , Anh phì cười khi thấy tựa đề cuốn truyện… và Anh kể cho Tôi biết ngày Anh vô đây gặp một tên Ðại Bàng trong Tù khi hắn biết Anh là Phi Ðoàn Trưởng 219 ,hắn kính phục Anh ngay , vì hắn cũng là một quân nhân, và hắn ta đã nghe về nhưng huyền thoại 219 đồng thời ngoài đời Anh Ta là một tay Anh Chị khét tiếng ở Nha Trang và Anh Ta cũng có một đôi lần đụng độ với những kẻ lì lợm của 219 khi PÐ 219 chưa về Nha Trang vào những năm 1968 – 1969 , Và hình như Anh ta là kẻ chém lầm vào tay Anh Châu Lương Cang tại Bar số 1, Khi gặp Anh Nghĩa Hắn ta nể phục ngay , và ra lệnh cho đàn Em phục vụ Anh Nghĩa trong mọi tình huống , và nhu cầu Anh muốn , Anh ta tuyên bố với đàn Em “ Ðây là một Ðại ca giang hồ Trí thức của Anh ta “. Sau này một tháng hay vài tuần Anh đều được về phép do Anh Ðặng Duy Lạc và Chuẩn Tướng Lượng bảo lãnh.

Khi vào thăm Anh Nghĩa , Lính bào vệ Quân Lao đòi tôi phải trình căn cước Quân Nhân , lúc đó Tôi mới biết là từ ngày nhập Ngũ lên đến Thượng Sĩ mà không hề nghĩ đến làm căn cước quân nhân . Từ lúc đó tôi mới về Phòng Nhân Viên Không Ðoàn Yểm cứ Nha Trang lúc đó là Trung Tá Lê Trọng Hiệp Quyền Không đoàn trưởng KÐ.YC. NTG xin làm căn cước , PNV đòi hỏi Tôi phải có căn cước dân sự mới được làm , vì là Hạ Sĩ Quan cần phải có song song hai căn cước Quân nhân & dân sự . Khi Tôi trình căn cước dân sự thì họ nói CC này không hợp lệ vì đả đổi mẫu mới từ nhiều năm nay rồi, thế là Tôi lại phải ra Cuộc Cảnh Sát ở Ðường Nguyễn Hoàng Nha Trang , Nơi đây Họ cho biết hiến pháp bắt buộc mọi công dân của nước Việt Nam Công Hoà phải có lược giải cá nhân khi chưa nhập ngũ , và phải có căn Cước để chính Quyền theo dõi mọi lý lịch Công Dân , và cũng thuận tiện điều tra tội phạm , và đã quy định toàn dân phải thay đổi căn cước mẫu mới , ai không tuân theo quy định của luật pháp sẽ bị truy tố . Chính vì vậy họ giải tôi ra quân cảnh tư pháp, Một lần nữa Tôi lại có duyên với Quân Cảnh Tư Pháp Nha Trang , lần này thì khác hơn lần trước , Tôi không được ưu đãi mà họ đưa Tôi thẳng vào cũi vỉ sắt , không có nước , làm vệ sinh tại chỗ , ăn uống thì theo tiêu chuẩn cao nhất nước , ngày hai lần một sô cơm không và một sô nhỏ nước mắm , nói là nước mắm cho lịch sự , chứ thật ra nước trà pha với muối , chén bát tự túc , Tôi không thể nào ăn theo kiểu này được , nhưng những quân nhân phạm tội ở đây họ ăn rất ngon lành, hàng ngày có Quý và Nghiêm mang thức ăn đến cho tôi , đúng ra họ chỉ làm việc với Tôi qua loa là cho về ngay , nhưng hình như họ muốn giữ Tôi lại để làm áp lực vòi tiền Anh Thu , Có lẽ Anh Thu vào báo cho Anh Nghĩa và Anh Nghĩa dứt khoát không để cho Anh Thu bị chúng nó làm áp lực , vì vậy sau một tuần không làm gì được chúng phải thả Tôi ra . Qua vài ngày tại Quân cảnh Tư Pháp , vì Tôi chẳng có tội nên ban ngày họ đưa tôi lên văn phòng làm việc nhờ Tôi đọc những bản án cho họ đánh máy , qua đó tôi biết được rất nhiều Quân nhân nhất là địa Phương Quân hay phạm tội hiếp dâm . Sau khi trả Tôi về đơn vị , vài tuần sau tôi nhận sự vụ lệnh về thặng số trại SỐNG MỚI ở Tân Sơn Nhất với lý do Thặng số chờ Tòa , và ngày đi có ngày về thì không.

Về đây họ không giam như nhưng quân nhân khác, họ cho tôi làm nhiệm vụ đi liên lạc với các đơn vị Cảnh Sát các Quận trong Saigon tìm hiểu các Quân nhân Không Quân phạm tội, đến tháng tư năm 1974 họ trả tôi về đơn vị , và cho đến tháng 5 năm 1974 Anh Thu và Tôi được Tòa Aùn Quân sự mời ra làm việc , và mọi sự lại khai như ban đầu , sau đó ngày 12 tháng 07 năm 1974 Anh Thu và Tôi được trát tòa gọi ra Trình diện , khi vào phiên tòa chánh Aùn chủ tọa của Tòa Aùn Quân sự là Ðại Tá TỪ DƯƠNG , Oâng cho hỏi Anh Thu trước là có bà con họ hàng với Anh Nghĩa không và chỉ hỏi như vậy , tiếp đến Tôi ông cũng chỉ hỏi như thế mà thôi , sau đó họ mời Anh Thu và Tôi ra ngoài không cho dự phiên tòa kết tội Anh Nghĩa , Chúng Tôi hiểu đây là sự tế nhị của Tòa Aùn không muốn cho thuộc cấp thấy cấp chỉ huy của mình bị kết tội , sau gần một giờ đồng hồ luận án , Tòa cho mời tất cả nhân chứng và Can phạm ra trước sân cờ ngay trước cổng để tuyên án . Trước tiên Tòa Aùn cho làm lễ chào cờ dàn nhạc Quân đội Trống kèn đã xếp hàng dài trước sân cờ họ mặc lễ phục màu trắng và những đai tay bụng chân bằng da màu trắng , nhạc quốc thiều trổi lên châm dứt là giấy phút hồi hộp và căng thẳng đã đến….Ðại tá Từ Dương đọc bản án “ Xét vì ….. Tr/T Nguyễn Văn Nghĩa đã can tội trái lệnh mà Quân luật đã ra …. Xét vì ….. Tr/T Nguyễn Văn Nghĩa đã làm Tổn thất về Quân sự …Nay với Bản Aùn Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa can Tội VI PHẠM HUẤN LỆNH QUÂN SỰ theo bản án số…. Của TTM/QÐ.VNCH/ T.A QS. NTG. Ngày…… Toa Tuyên án …..” Tới đó Ð/T Từ Dương ngừng lại và Một hồi Trống quân hành …. CÀ …THÙNG …CÀ…THÙNG …CÀ …THÙNG… nghe tiếng trống làm tức ngực người nghe và thật tình Tim tôi muốn nhẩy ra ngoài, tiếp đến giàn kèn Quân nhạc trổi lên tiếng kèn kêu như thúc quân rầm rộ , càng nghe càng hồi hộp , rồi cả hai kèn và trống đồng hoà nhạc kéo dài 15 phút . Ð/T Từ Dương tiếp tục tuyên án “ Tr/T Nguyễn văn Nghĩa bị kến án tám tháng tù ờ bắt đầu kể từ ngày Tr/T bị bắt giam “ và dàn nhạc lại tiếp tục trổi lên , lần này sao tôi nghe hay và có vẻ vui mừng hơn , mọi người lại chúc mừng Anh Nghĩa vìa Anh đã ở trong quân Lao 9 tháng rồi qúa thời gian tòa kết án . và từ đó anh về nhà luôn.

Sau này tôi được biết người đánh cắp máy bay là Th/u Hồ Duy Hùng một Phi công đã được đào tạo tại Texas Hoa Kỳ cùng khóa với Trần Văn Sua của PÐ 219 sau khi Anh ta về VN thì Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia điều tra ra gia đình Anh ta theo địch Quân và Bộ Tổng tham mưu QÐ.VN.CH do Ðại Tướng Cao Văn Viên Tổng tham mưu trưởng QÐ .VN.CH chỉ thị BTL.KQ sa thải Anh ta ngày 31 tháng 12 năm 1971. Anh ta lấy máy bay và bay về Dầu Tiếng cách Cà Tum khoảng 5 hoặc 6 cây số khi bay tới mật khu Anh ta bị bắn rấn nhiều và rất may nhờ có Arrmor tấm giáp chắn đạn đã cứu nguy cho Anh ta .

KINGBEEMAN 219

Tài Liệu Việt Cộng Sưu Tầm Trên NET để đối chiếu Sự Thật



Máy bay UH-1 của Mỹ được ta sử dụng như thế nào?

Thứ tư, 04/03/2009 23:37 pm

Những chiếc máy bay UH-1 thu được của Mỹ nguỵ đã được chúng ta khai thác có hiệu quả. Nhà máy A42 được giao nhiệm vụ phục hồi và sửa chữa bảo dưỡng máy bay UH-1 để có thêm trang bị phục vụ công tác và sẵn sàng chiến đấu.
Ông Hồ Duy Hùng, Giám đốc Công ty du lịch Phú Thọ thuộc Tổng công ty Du lịch Sài Gòn, nguyên là tình báo của ta cài trong hàng ngũ địch, là người đã lập chiến công cướp một chiếc máy bay UH-1 đưa ra vùng giải phóng.
Ông Hồ Duy Hùng 57 tuổi, ở Duy Xuyên, Quảng trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Cha của ông là Hồ Duy Từ, một trong những người sáng lập ra Chi bộ Đảng ở Duy Xuyên. Sau Mậu Thân 1968, ông được tổ chức cài vào hàng ngũ địch, được chúng tuyển chọn đi học lái máy bay UH-1 ở Mỹ.
Cuối năm 1970, ông được điều về Sư đoàn 2 không quân ngụy ở Nha Trang. Tổ chức vẫn giữ liên lạc, nhận các tài liệu các bản đồ mà ông lấy được chuyển ra vùng giải phóng. Đầu tháng 3/1971, ông bị địch bắt, do bị phát hiện gia đình có quá nhiều người tham gia cách mạng và một tên chiêu hồi, nguyên là tài vụ thị ủy, nhớ nhầm là đã gặp ông trong vùng giải phóng (thực ra tên này đã gặp người anh của ông).


Các phi công UH-1 Đoàn B70 sau chuyến bay.

Ông bị chúng giam 5 tháng, sau đó tước quân tịch và giao cho cảnh sát. Trong những ngày tháng bị cảnh sát giam giữ, chúng đã giải ông qua 7 nhà giam, tìm cách moi móc tin tức và điều tra về ông. Nhưng rồi chúng không tìm được chứng cứ, đành phải thả ông ra. Ông móc nối với cơ sở ta, vào chiến khu tham gia cách mạng.
Cuối năm 1973, tổ chức phân công ông trở lại vùng địch kiểm soát để tìm cách lấy trực thăng UH-1 của địch. Ông đã lên Đà Lạt nắm tình hình, biết bọn lái trực thăng UH-1 hay đỗ xuống bờ hồ Xuân Hương để lên chợ chơi trước khi về Sài Gòn.
Ngày 7/11/1973, một chiếc UH-1 trên đường từ Đắk Nông về Sài Gòn đã đỗ xuống ven hồ Xuân Hương. Tên phi công vừa đi khuất, ông Hồ Duy Hùng đã nhảy ngay lên máy bay, nổ máy, bay thẳng về Bến Cát. Theo kế hoạch, ở vùng giải phóng có chuẩn bị một bãi đỗ trực thăng, nhưng hôm đó thời tiết xấu, về gần đến nơi thì máy bay sắp hết dầu, ông Hùng phải đỗ máy bay xuống Dầu Tiếng, ven bờ hồ, trong rừng cao su.
Ông phải lấy bùn trát lên những chỗ sơn trắng trên thân máy bay, bẻ cành cây để ngụy trang không cho máy bay địch phát hiện. Sau đó, ông băng rừng tìm đơn vị của ta, và gặp một đội vận tải gần đó. Anh em đề nghị ông bay vào bãi trống trước khu đóng quân của đơn vị. May mà đoạn đường gần, ông đưa được máy bay về đúng yêu cầu. Anh em kéo máy bay vào rừng, ngụy trang chu đáo.
Mấy hôm sau, Bộ chỉ huy miền yêu cầu ông Hùng đưa máy bay về khu Lộc Ninh.
Đầu năm 1974, theo lệnh trên, chiếc máy bay UH-1 được tháo rời, đưa ra sân bay Hòa Lạc. Ông Nguyễn Tường Long và nhóm kỹ sư đã lắp lại máy bay. Ông Hồ Duy Hùng được trên phân công làm giáo viên huấn luyện cho một số phi công trực thăng. Đây là chiếc máy bay UH-1 đầu tiên của Mỹ còn nguyên vẹn được anh em kỹ thuật hàng không nghiên cứu sử dụng.

Sử dụng UH-1 làm nhiệm vụ

Ngày 21/5/1975, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn không quân C17, đóng trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, sử dụng máy bay thu được của địch cùng với đơn vị bạn bảo vệ vùng trời, vùng biển phía Nam Tổ quốc.
Ngay sau khi được thành lập, Trung đoàn đã tiếp quản, thu hồi các máy bay UH-1 của địch, nhanh chóng tổ chức huấn luyện sử dụng. Các giáo viên bay UH-1 đầu tiên là các ông Hồ Duy Hùng, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Hữu Nhậm, Nguyễn Đình Khoa. Ngày 5/6/1975, máy bay trực thăng vũ trang UH-1 bắt đầu tham gia chiến dịch giải phóng các đảo trên vùng biển Tây Nam, đánh vào các điểm cố thủ trên đảo Hòn Ông và đảo Hòn Bà.
Máy bay UH-1 đã xuất kích 30 chuyến, góp phần không nhỏ trong việc tiêu diệt các ổ đề kháng và bắn chìm 7 tàu địch.
Từ ngày 17/9/1975, Trung đoàn không quân C17 hiệp đồng với lực lượng vũ trang Quân khu V truy quét Fulro ở địa bàn tỉnh Đắk Lắk, khu vực thị xã Buôn Ma Thuột.
Giữa năm 1977, tình hình biên giới Tây diễn biến phức tạp, bọn diệt chủng Pôn Pốt cho quân khiêu khích và lấn chiếm biên giới nước ta từ Tây Nguyên đến Hà Tiên. Các máy bay UH-1 lại tiếp tục nhận nhiệm vụ chi viện hỏa lực cho bộ binh đánh vào phòng tuyến của địch.
Ông Hồ Duy Hùng kể lại, những chiếc máy bay UH-1 lúc đó rất lợi hại, trên máy bay, phi công và xạ thủ được mặc áo giáp chống đạn, đội mũ sắt khá dày, đạn súng trường bắn trúng không xuyên qua được. Phi công lại được ngồi trên ghế sắt có thành cao bao bọc xung quanh.
Máy bay UH-1 bay là là cách mặt đất chưa đến 10 mét, trên máy bay có 2 khẩu súng Miligân 6 nòng (7,62mm) với 12.000 viên đạn, hai bên cánh treo 14 quả rốckét. Từ máy bay, các xạ thủ "khạc" lửa vào quân địch, chúng chịu không nổi bỏ chạy như vịt, Bộ binh ta ào ạt xông lên tấn công.
Có nhiều trận đánh, địch bắn trả quyết liệt, máy bay của ông có lần trúng 12 viên đạn trên thân nhưng vẫn bay về được sân bay vì đạn không trúng chỗ hiểm. Ông Hùng cho biết, thùng xăng UH-1 có lớp cao su dày, nên khi đạn bắn trúng, thì nó tự bịt lại, không cho xăng chảy ra ngoài.
Bảo quản trực thăng UH-1.
Có lần chiếc UH-1 do phi công Nguyễn Đình Khoa lái (sau này anh được tuyên dương Anh hùng LLVTND), bị địch bắn đứt đường dầu đỏ ở bộ phận điều khiển nhưng anh vẫn hạ cánh xuống cánh đồng chờ đồng đội đến thay đường dẫn dầu khác, sau đó bay về căn cứ an toàn. Máy bay do phi công Mai Chí Lưu lái cũng bị địch bắn gãy cả điều khiển đuôi vẫn về được sân bay...
Từ năm 1977 - 1986, máy bay UH-1 của Trung đoàn C17 đã cất cánh hàng ngàn lần. Máy bay trực thăng UH-1 còn góp phần không nhỏ trong việc vận chuyển thương binh, vũ khí trang bị, thuốc men cho chiến trường... Phân xưởng sửa chữa máy bay lên thẳng Nhà máy A42 là nơi tổ chức phục hồi, sửa chữa trực thăng UH-1 cho Trung đoàn. Đây cũng là phân xưởng duy nhất của nhà máy được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.


Khôi phục, bảo quản UH-1

Tháng 10/1992, Nhà máy A42 tiến hành phục hồi sửa chữa hai máy bay trực thăng UH-1 số 790, 796, giao cho Trung đoàn C17 khai thác sử dụng, còn số máy bay UH-1 khác được cán bộ, công nhân viên Nhà máy A42 bảo quản, bảo dưỡng theo đúng quy trình kỹ thuật hàng không. Hai máy bay này được sử dụng chủ yếu phục vụ làm phim.
Tuy chưa đủ năng lực và kinh phí để đầu tư khôi phục những chiếc UH-1, nhưng lãnh đạo Nhà máy A42 vẫn tính đến khả năng một ngày sẽ sử dụng lại máy bay này, nên các anh đã phân loại máy bay, phụ tùng vật tư của UH-1 để bảo quản, niêm cất. Đặc biệt, các hệ thống thiết bị hàng không, các tài liệu phục vụ cho quy trình đại tu máy bay UH-1, được bảo quản nghiêm ngặt.
Nguyên Giám đốc Nhà máy A42 Lê Văn Bạo cho biết, năm 1995, trong dịp vào dự lễ kỷ niệm 20 năm giải phóng miền Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà đã nghe nhà máy thuyết trình phương án “khôi phục trực thăng UH-1". Đồng chí Bộ trưởng sau đó đã chỉ đạo các cơ quan chức năng giao cho Nhà máy A42 khôi phục đợt đầu tiên 12 chiếc máy bay UH-1.
Các máy bay UH-1 đã có tuổi hàng chục năm, nhiều vật tư, phụ tùng đã hết niên hạn sử dụng, trình độ chuyên môn của anh em về lĩnh vực này còn hạn chế, nhưng lãnh đạo và các cán bộ kỹ thuật của nhà máy đã thể hiện quyết tâm rất cao bằng việc nghiên cứu, biên soạn tài liệu, xây dựng quy trình công nghệ đại tu máy bay UH-1, đại tu lại các chi tiết phụ tùng UH-1 theo đúng quy trình.
Nhà máy còn cử cán bộ ra nước ngoài tìm mua vật tư, phụ tùng mà ta không có. Rất may, lúc này máy bay UH-1 đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng vào mục đích dân sự nên việc mua vật tư dễ dàng hơn. Công việc khôi phục, bảo quản máy bay UH-1 đạt kết quả tốt
Theo CAND

Thursday, January 14, 2010



Họp Mặt Không Đoàn 51


Với lời ngỏ ý chân tình của vị Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51, KQ Tôn Thất Khánh tình nguyện đứng ra tổ chức một buổi họp mặt cho tất cả các huynh đệ thuộc Không Đoàn 51. Buổi họp mặt thân tình nhằm kiểm điểm những còn mất của gia đình Không Đoàn 51 và những trao đổi ân tình sau khoảng thời gian dài không gặp.


Kính mời tất cả các huynh đệ thuộc Không Đoàn 51 tham gia

Ngày tổ chức : 02 tháng 07 năm 2010
Tại : Nhà hàng Paracel SEAFOOD (HOÀNG SA)
15583-15589 Broohurst St.
Westminster, CA. 92683
Tel. 714-775-3077 Fax 714-775-3079
Thời gian : từ 06:00 PM đến 11:00 PM
Tổn phí : $35 cho người lớn và $20 cho trẻ em


Để xác nhận tham dự các huynh đệ liên lạc với:
PĐ-213 KQ CAO QUANG KHÔI TEL. 714-494-5405
PĐ-219 KQ ĐẶNG ĐỨC QUỲNH 714-653-0227
PĐ-233 KQ NGUYỄN VĂN THANH 832-781-6779
PĐ-239 KQ NGUYỄN ANH TOÀN 504-340-9826
PĐ-247 KQ NGUYỄN VĂN MAI 408-355-0333
PĐ-253 KQ HUỲNH VĂN PHỐ 626-442-7162
PĐ-257 KQ LÊ NGỌC BÌNH 337-739-1842


Mọi vấn đề liên quan đến buổi họp mặt vui lòng liên lạc trực tiếp với Trưởng Ban Tổ Chức:


Tôn Thất Khánh Tel 714-657-9232.
Riêng tôi, KQ Trần Văn Ngọc, được KQ Tôn Thất Khánh nhờ lo về vấn đề tổ chức; một nhiệm vụ hoàn toàn có tính cách kỹ thuật.


Chúng tôi hân hoan chào đón sự góp mặt của tất cả các chiến hữu.


Trưởng ban tổ chức
KQ Tôn Thất Khánh

Friday, January 1, 2010

Kingbee Tham Vieng Nam Cali



Đứng: PhanToàn-TrầnVănNgọc (213-245)
Ngồi: MrsToàn- Hồng-Tiến-Quỳnh-Thạnh-Long
chụp tại CafeFactory sáng ngày 30-12-2009